Các sản phẩm thiên nhiên, đặc biệt là từ thảo dược đã được nghiên cứu và sử dụng lâu đời cho việc nâng cao sức khỏe, phòng chống bệnh tật của con người. Các nhà khoa học càng ngày càng quan tâm đến vấn đề này khi họ nhận ra lợi ích thật sự của những loại dược thảo đối với sức khỏe con người.
Cây Nhàu, có tên khoa học là: Morinda citrifolia L. Các tên khác: cây Ngao, Nhàu rừng, Nhàu núi, Nhàu nước, Nono, Nonu, Noni. Thuộc họ cà phê (Rubiaceae). Có 65 loài Nhàu, phân bố khắp vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới. Phân bố rộng ở châu Á, từ Trung Quốc đến Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Philippin, Ấn Độ, Úc và các đảo ở Thái Bình Dương.
Cây Nhàu ở quần đảo Tahiti do tổ tiên người Polynesian mang theo từ Đông Nam Á di cư đến từ 2.000 năm trước. Đây là vùng đất núi lửa ở giữa nam Thái Bình Dương, rất màu mỡ, giàu Selenium, khí hậu trong lành, không ô nhiễm. Cây Nhàu ở đây được xếp vào loại tốt nhất trên thế giới, cây cao, xanh tốt, quả to, có hàm lượng hoạt chất và chất lượng tốt.
Theo công trình nghiên cứu của Krauss.B - 1993, người Polynesian từ 2.000 năm trước đã sử dụng cây Nhàu như một dược thảo để chữa bệnh, tăng cường sức khỏe và cứu đói. Theo kinh nghiệm phát triển theo lịch sử, đến nay trái Nhàu được dùng để phòng chống bệnh ung thư, viêm khớp, bệnh nhiễm trùng, tăng huyết áp, tiểu đường, hen, đau mỏi, trầm cảm và rối loạn kinh nguyệt.
Ở Việt Nam theo tài liệu “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS Đỗ Tất Lợi - Nhà xuất bản Y học (2004) và “Những cây thuốc và động vật làm thuốc” của Viện Dược liệu - Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (2006), cây Nhàu và quả Nhàu đã được sử dụng lâu đời để chữa cao huyết áp, viêm khớp, nhức mỏi, đau lưng, điều kinh, lợi tiểu, chữa vết thương, trị giun sán, chữa lỵ, ho, sốt và đái đường.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cây Nhàu và các sản phẩm từ cây Nhàu. Trong vòng 95 năm (1913 - 2008) đã có 161 công trình nghiên cứu về thành phần và tác dụng của cây Nhàu.
Năm 1974, Levand O và Larson HO đã công bố trong cây Nhàu có các hoạt chất sau: Scopoletin, Octoanoic acid, Terpenoids, Alcaloids, Anthraquinones, b - sitosterol, Flavonoids, Rutin, Linoleic acid, Amino acid, Caproic acid, Acubin, Alzarin, Proxeronine.
Đến năm 1999 - 2000, Wang M; Kikuzaki H và cộng sự đã phát hiện thêm 2 chất mới có trong lá Nhàu là: Flavonol glycosides; Iridoid glycoside và 3 chất mới trong quả Nhàu là: Irisacharide Fatty acid ester; Rutin; acid Asperulosidic.
Theo kết quả nghiên cứu của Duke JA (1992), trong cây và quả Nhàu có 23 hoạt chất khác nhau, 5 loại Vitamin và 3 loại khoáng chất. Kết quả nghiên cứu của Neil Solomon cùng 40 tác giả khác (1999 - 2001) cho thấy trong cây Nhàu (Noni) có tới 200 hoạt chất khác nhau, trong đó có cả các Vitamin A, C, E, B1, B2, Niacin, B6, acid Folic, B12, Biotin, acid Pantothenic và các chất khoáng bao gồm: Fe, P, Mg, Cu, Zn, Cr, Mn, Na, K, Ca.
Ngoài ra, trong trái Nhàu còn có các Enzymes; Polysaccharides; Dietary Fibers; acid béo chuỗi ngắn; Phytosterols. Các thành phần của cây Nhàu được công bố trong “Những cây thuốc và động vật làm thuốc” (Viện Dược liệu) và “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” (GS Đỗ Tất Lợi) cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới.
Trong các nghiên cứu về thành phần và tác dụng của cây Nhàu và quả Nhàu, có thể nói, một sự khám phá mới, một sự phát minh mới, là các nghiên cứu về Iridoids trong cây Nhàu.
Iridoids là các hợp chất có cấu trúc dạng Cyclopenta (C) pyran monoterpenoid, có mặt trong nhiều loại dược thảo, trong cây và quả Nhàu có hàm lượng rất cao (từ 0.15 đến trên 0.30 mg/ml)
Iridoids được thực vật sản xuất ra như một cơ chế phòng vệ chống lại các tác nhân gây bệnh. Iridoids có phổ tác dụng sinh học rất rộng, có cấu trúc hóa học bền vững, không bị thay đổi khi tiếp xúc với oxygen, nhiệt độ và ánh sáng.
Đặc biệt, hoạt tính sinh học của Iridoids vẫn còn giữ vững sau 2 năm sản xuất và lâu hơn. Trong cây Nhàu và quả Nhàu có 16 loại Iridoids khác nhau. Các tác dụng sinh học của cây Nhàu chủ yếu là do Iridoids quyết định.
Các tác giả Roso Tundis; Monica R. Loizzo; Federca Menichini và Giancarlo A.Statti (2008) đã tổng hợp kết quả nghiên cứu của 141 tác giả từ 1986 đến 2007 về tác dụng sinh học của Iridoids:
Cây Nhàu, có tên khoa học là: Morinda citrifolia L. Các tên khác: cây Ngao, Nhàu rừng, Nhàu núi, Nhàu nước, Nono, Nonu, Noni. Thuộc họ cà phê (Rubiaceae). Có 65 loài Nhàu, phân bố khắp vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới. Phân bố rộng ở châu Á, từ Trung Quốc đến Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Philippin, Ấn Độ, Úc và các đảo ở Thái Bình Dương.
Cây Nhàu ở quần đảo Tahiti do tổ tiên người Polynesian mang theo từ Đông Nam Á di cư đến từ 2.000 năm trước. Đây là vùng đất núi lửa ở giữa nam Thái Bình Dương, rất màu mỡ, giàu Selenium, khí hậu trong lành, không ô nhiễm. Cây Nhàu ở đây được xếp vào loại tốt nhất trên thế giới, cây cao, xanh tốt, quả to, có hàm lượng hoạt chất và chất lượng tốt.
Theo công trình nghiên cứu của Krauss.B - 1993, người Polynesian từ 2.000 năm trước đã sử dụng cây Nhàu như một dược thảo để chữa bệnh, tăng cường sức khỏe và cứu đói. Theo kinh nghiệm phát triển theo lịch sử, đến nay trái Nhàu được dùng để phòng chống bệnh ung thư, viêm khớp, bệnh nhiễm trùng, tăng huyết áp, tiểu đường, hen, đau mỏi, trầm cảm và rối loạn kinh nguyệt.
Ở Việt Nam theo tài liệu “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS Đỗ Tất Lợi - Nhà xuất bản Y học (2004) và “Những cây thuốc và động vật làm thuốc” của Viện Dược liệu - Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (2006), cây Nhàu và quả Nhàu đã được sử dụng lâu đời để chữa cao huyết áp, viêm khớp, nhức mỏi, đau lưng, điều kinh, lợi tiểu, chữa vết thương, trị giun sán, chữa lỵ, ho, sốt và đái đường.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cây Nhàu và các sản phẩm từ cây Nhàu. Trong vòng 95 năm (1913 - 2008) đã có 161 công trình nghiên cứu về thành phần và tác dụng của cây Nhàu.
Năm 1974, Levand O và Larson HO đã công bố trong cây Nhàu có các hoạt chất sau: Scopoletin, Octoanoic acid, Terpenoids, Alcaloids, Anthraquinones, b - sitosterol, Flavonoids, Rutin, Linoleic acid, Amino acid, Caproic acid, Acubin, Alzarin, Proxeronine.
Đến năm 1999 - 2000, Wang M; Kikuzaki H và cộng sự đã phát hiện thêm 2 chất mới có trong lá Nhàu là: Flavonol glycosides; Iridoid glycoside và 3 chất mới trong quả Nhàu là: Irisacharide Fatty acid ester; Rutin; acid Asperulosidic.
Theo kết quả nghiên cứu của Duke JA (1992), trong cây và quả Nhàu có 23 hoạt chất khác nhau, 5 loại Vitamin và 3 loại khoáng chất. Kết quả nghiên cứu của Neil Solomon cùng 40 tác giả khác (1999 - 2001) cho thấy trong cây Nhàu (Noni) có tới 200 hoạt chất khác nhau, trong đó có cả các Vitamin A, C, E, B1, B2, Niacin, B6, acid Folic, B12, Biotin, acid Pantothenic và các chất khoáng bao gồm: Fe, P, Mg, Cu, Zn, Cr, Mn, Na, K, Ca.
Ngoài ra, trong trái Nhàu còn có các Enzymes; Polysaccharides; Dietary Fibers; acid béo chuỗi ngắn; Phytosterols. Các thành phần của cây Nhàu được công bố trong “Những cây thuốc và động vật làm thuốc” (Viện Dược liệu) và “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” (GS Đỗ Tất Lợi) cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới.
Trong các nghiên cứu về thành phần và tác dụng của cây Nhàu và quả Nhàu, có thể nói, một sự khám phá mới, một sự phát minh mới, là các nghiên cứu về Iridoids trong cây Nhàu.
Iridoids là các hợp chất có cấu trúc dạng Cyclopenta (C) pyran monoterpenoid, có mặt trong nhiều loại dược thảo, trong cây và quả Nhàu có hàm lượng rất cao (từ 0.15 đến trên 0.30 mg/ml)
Iridoids được thực vật sản xuất ra như một cơ chế phòng vệ chống lại các tác nhân gây bệnh. Iridoids có phổ tác dụng sinh học rất rộng, có cấu trúc hóa học bền vững, không bị thay đổi khi tiếp xúc với oxygen, nhiệt độ và ánh sáng.
Đặc biệt, hoạt tính sinh học của Iridoids vẫn còn giữ vững sau 2 năm sản xuất và lâu hơn. Trong cây Nhàu và quả Nhàu có 16 loại Iridoids khác nhau. Các tác dụng sinh học của cây Nhàu chủ yếu là do Iridoids quyết định.
Các tác giả Roso Tundis; Monica R. Loizzo; Federca Menichini và Giancarlo A.Statti (2008) đã tổng hợp kết quả nghiên cứu của 141 tác giả từ 1986 đến 2007 về tác dụng sinh học của Iridoids:
COMMENTS